- Ung thư tiền liệt tuyến di căn như thế nào?
Khi chẩn đoán ban đầu bệnh này, số bệnh nhân đã bị di căn chiếm khoảng 20 - 30%, trong đó di căn vào xương chiếm 60 - 70% số người bệnh. Di căn vào xương theo thứ tự là xương chậu, đốt sống eo, xương đùi, đốt sống ngực và xương sườn. Khi di căn vào đốt sống ngực và eo, có thể gây chèn ép tủy sống. Ô di căn ở xương chủ yếu có biểu hiện thay đổi tính chất xương, nhưng cũng có thể gây loãng xương. Phân hóa ung thư càng sai khác thì di căn vào xương sẽ càng nhiều.
Khi chẩn đoán ban đầu bệnh này, số bệnh nhân đã bị di căn chiếm khoảng 20 - 30%, trong đó di căn vào xương chiếm 60 - 70% số người bệnh. Di căn vào xương theo thứ tự là xương chậu, đốt sống eo, xương đùi, đốt sống ngực và xương sườn. Khi di căn vào đốt sống ngực và eo, có thể gây chèn ép tủy sống. Ô di căn ở xương chủ yếu có biểu hiện thay đổi tính chất xương, nhưng cũng có thể gây loãng xương. Phân hóa ung thư càng sai khác thì di căn vào xương sẽ càng nhiều.
Các số liệu liên quan cho thấy, những người ung thư tiền liệt tuyến đã cắt bỏ bằng phẫu thuật, khi kiểm tra mô đã chứng thực bệnh biến chỉ giới hạn ở trong màng bao tiền liệt tuyến, thì chỉ có 7% bị di căn vào hạch limpha khoang xương chậu. Khi trong lâm sàng cho rằng, ung thư chỉ hạn chê" ở bên trong tiền liệt tuyến, thì thực tê" đã có 25% sô" bệnh nhân bị di căn vào hạch limpha khu khoang xương chậu; nếu ung thư đã vượt qua màng bao tiền liệt tuyến, thì sô" người bị di căn vào hạch limpha của khu khoang xương chậu sẽ lên tới 25 -75%; nếu ung thư xâm nhập vào màng gân xung quanh bàng quang thì sô" người bị di căn vào hạch litnpha của khu khoang xương chậu có thể tới 80%. Ung thư nguyên phát càng lớn thì tỉ lệ di căn vào hạch limpha khu khoang xương chậu càng cao. Di căn vào hạch limpha xuất hiện sớm nhất ở lỗ đóng và cụm hạch limpha ở bụng dưới, và xuất hiện nhiều trong và ngoài xương chậu, vùng eo, bẹn, tĩnh mạch khoang dưới,
khoang ngực, xương quai xanh trái và hạch limpha dưới nách. Nếu hạch limpha khu khoang xương chậu bị di căn thì hạch limpha ở cạnh động mạch chủ cũng có ổ di căn. Có thể thấy, phân hóa ung thư càng kém, thì tỉ lệ di căn vào hạch limpha càng cao.
Di căn vào nội tạng chủ yếu là tuyến thượng thận, gan, phổi. Trong số những người chết vì ung thư tiền liệt tuyến, có 25% trường hợp là do di căn vào phổi, nhưng về mặt lâm sàng lại thường không có chứng trạng ở phổi.
Do thời gian mang bệnh không đồng nhất, nên nếu không kịp thời chữa trị, chỉ có thể sống được 31 tháng, những người đã di căn chỉ hơn 9 tháng là chết. Trong khi đó, nếu áp dụng phẫu thuật thì có đến 50% số bệnh nhân có thể tiếp tục sống trên 5 năm; những người đã di căn có thể sống đến 5 năm chỉ chiếm 6%.
Di căn vào nội tạng chủ yếu là tuyến thượng thận, gan, phổi. Trong số những người chết vì ung thư tiền liệt tuyến, có 25% trường hợp là do di căn vào phổi, nhưng về mặt lâm sàng lại thường không có chứng trạng ở phổi.
Do thời gian mang bệnh không đồng nhất, nên nếu không kịp thời chữa trị, chỉ có thể sống được 31 tháng, những người đã di căn chỉ hơn 9 tháng là chết. Trong khi đó, nếu áp dụng phẫu thuật thì có đến 50% số bệnh nhân có thể tiếp tục sống trên 5 năm; những người đã di căn có thể sống đến 5 năm chỉ chiếm 6%.
- Những nhân tố nào làm ung thư tiền liệt tuyến phát triển?
Quy luật phát triển tự nhiên của ung thư tiền liệt tuyến chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Bệnh nhân tuổi càng trẻ thì bệnh phát triển càng nhanh. Ung thư to hay nhỏ, thòi gian tồn tại dài ngắn, cấp độ và loại hình đều có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển nhanh hay chậm của bệnh ung thư. Trong sự tác động lẫn nhau giữa cơ quan bị ung thư và ung thư, khả năng miễn dịch của cơ quan bị ung thư có một ý nghĩa nhất định, nếu năng lực miễn dịch của cơ quan đó bị ức chế là ung thư sẽ phát triển. Khi điều trị bằng nội tiết, nếu men axit photphoric mang tính axit trong huyết thanh không giảm xuống cũng có thể dự đoán diễn biến về sau không tốt.
Có thể nói, các nhân tố nói trên đều có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của ung thư tiền liệt tuyến. Xem thêm cách điều trị và thông tin bệnh viêm tuyến tiền liệt