Bệnh nhân khi đã mắc bệnh, đặc biệt là biết mình đã bị ung thư tiền liệt tuyến thường sinh ra tâm trạng bi quan, thất vọng, ức chế tâm lý. Vì vậy, bác sĩ, y tá phải hết sức quan tâm đến bệnh nhân, để chiếm được sự tín nhiệm của bệnh nhân, khiến bệnh nhân tin tưởng tuyệt đối, y bác sĩ phải toàn tâm toàn lực tìm ra phương án chữa trị và chăm sóc tốt nhất, chỉ cần bệnh nhân tích cực phôi hợp điều trị là sẽ chiến thắng được bệnh tật.
Y bác sĩ nên để lại ấn tượng đẹp trong lòng bệnh nhân về thái độ thân thiết, có trách nhiệm, có tay nghề. Từng cử chỉ lời nói của y bác sĩ đều có thể ảnh hưởng trực tiếp đến bệnh nhân và niềm tin cũng như lòng dũng cảm chiến đấu với bệnh tật của họ. Điều đó vô cùng quan trọng.
Phải căn cứ vào tình hình cụ thể của bệnh nhân để quyết định xem có nên nói thật tình trạng bệnh của họ hay không. Nói đến mức độ nào thì có thể có lợi cho sự điều chỉnh tính năng động chủ quan cho bệnh nhân, điều này phải xem xét đến tính cách trạng thái tâm lý, khả năng chịu đựng. Nguyên tắc chung là không được khiến bệnh nhân mất niềm tin. Với một số bệnh nhân ý chí kiên cường, có khả năng chấp nhận bệnh tật thì nói sự thật về bệnh tình sẽ rất có lợi cho việc khơi dậy tinh thần tự thân phấn đấu, tích cực chủ động phối hợp điều trị với bác sĩ, thường đạt được hiệu quả rất tốt. Nếu bệnh nhân tương đối mẫn cảm hoặc lo sợ, có thể tạm thời giấu, đợi thời cơ thích hợp sẽ tiết lộ từng ít một, dần dần cho họ biết toàn bộ bệnh tình.
Bác sĩ khi trả lời các câu hỏi của bệnh nhân phải hết sức khéo léo, trong quá trình điều trị nếu bệnh biến triển theo chiều hướng tốt, phải lập tức động viên kích lệ bệnh nhân, tạo cho họ niềm hy vọng. Không được có
vẫn phát triển chậm, chỉ 2% tử vong trong vòng 5-10 năm. Do diễn biến về sau tốt nên thông thường không cần phẫu thuật. Ở giai đoạn A2 nếu không điều trị 30% ung thư lan rộng, 20% tử vong trong vòng 5-10 năm.
Giai đoạn B: nên phẫu thuật trị tận gốc, giai đoạn B1, đa số phân hóa tương đối tốt, khi phẫu thuật phát hiện 5-20% số bệnh nhân di căn hạch, tỉ lệ không mắc ung thư sau 15 năm phẫu thuật là 50-70%. Giai đoạn B2 tiến hành phẫu thuật phát hiện 50% đã xâm nhập vào túi tinh, 25-35% di căn hạch. Nếu khi phẫu thuật không di căn hạch, thì 86% bệnh biến chỉ hạn chế trong tiền liệt tuyến. Bệnh nhân không mắc lại ung thư sau 15 năm phẫu thuật là 25%.
Giai đoạn C: điều trị tương đối khó khăn, 50% số bệnh nhân di căn hạch, khu khoang xương chậu di căn rất rộng trong vòng 5 năm, 75% tử vong trong vòng 10 năm. Thông thường bệnh nhân điểu trị trong giai đoạn c bắt buộc phải phối hợp điều trị bằng phương pháp phóng xạ và nội tiết, tỉ lệ không tái phát trong 5 năm đạt khoảng 60%, trong 10 năm 20%-30%, trong 15 năm đạt 11%.
Giai đoạn D: chủ yếu điều trị bằng phương pháp phóng xạ, phương pháp hóa học và nội tiết. Tỉ lệ không tái phát trong 5 năm là 25%, trong 10 năm là 0%.
90% số bệnh nhân thất bại khi điều trị bằng phương pháp nội tiết ở bất kỳ giai đoạn nào đều tử vong sau năm. Tỉ lệ tử vong trong phẫu thuật là 1-5% (tham khảo thêm câu 217).
tại sao phải cắt bao quy đầu ?
ReplyDeletehttp://phongkhamdakhoathegioi.vn/tai-sao-phai-cat-bao-quy-dau.html